ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN TỘC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính Trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP, ngày 15/02/2020 Triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030

Đây là chủ trương lớn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nơi điều kiện KT - XH còn nhiều khó khăn, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều mặt thiếu thốn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao v.v...Do đó, "Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030" kỳ vọng sẽ đem lại hiệu quả rất quan trọng, đáp ứng yêu cầu mong đợi của đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi; giải quyết được cơ bản những khó khăn về đời sống, sản xuất, đặc biệt giảm hộ nghèo nhanh và bền vững; xây dựng nông thôn mới; nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng an ninh; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; lòng tin của nhân dân các dân tộc đối với Đảng, nhà nước ngày càng vững chắc.

          Tỉnh Quảng Nam với đặc thù gồm 09 huyện miền núi/18 huyện, thị xã, thành phố; Có diện tích tự nhiên 7.760,7 km2, chiếm bằng 73,4% tổng diện tích toàn tỉnh. Dân số khu vực miền núi khoảng 330.404 người, chiếm bằng 22% ; Trong đó đồng bào dân tộc thiểu số khoảng hơn 139.060 người, chiếm tỷ lệ 9,3% tổng dân số toàn tỉnh. Là khu vực có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về quốc phòng an ninh; đồng thời là vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số cư trú, sinh sống từ lâu đời như: Cơ tu, Cor, Giẻ-triêng, Xơ đăng, Bhnoong, Ca dong và Kinh v.v...Sau này có một số dân tộc thiểu số ở phía Bắc, như: Tày, Nùng, Mường, Thái...di cư tự do vào sinh sống trên địa bàn tỉnh. Theo số liệu thống kê, đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có 37 dân tộc thiểu số đang sinh sống tại 13 huyện, thành phố; trong đó tập trung chủ yếu ở 06 huyện miền núi cao, gồm: Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Bắc Trà My, Nam Trà My và Phước Sơn.

          Trong những năm qua, mặc dù điều kiện kinh tế xã hội miền núi còn nhiều khó khăn, tỷ hộ nghèo cao. Song được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời của Tỉnh Uỷ, HĐND, UBND tỉnh, kinh tế xã hội miền núi đã có nhiều khởi sắc, phát triển khá so với những năm trước đây; Các chương trình chính sách của Trung ương đầu tư cho miền núi, vùng điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, như: Nghị quyết 30a/NQ-CP, Chương trình 135, Chương trình MTQG Nông thôn mới...đã phát huy hiệu quả; cơ sở hạ tầng đường, điện, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, trụ sở làm việc, nhà văn hóa, thủy lợi,...đã được đầu tư kiên cố, đáp ứng nhu cầu đời sống, sinh hoạt, sản xuất của đồng bào. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư của trung ương, những năm qua, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành các cơ chế chính sách ưu tiên nguồn lực, lồng ghép nguồn vốn đầu tư cho miền núi, như: Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 17/8/2016 về phát triển kinh tế - xã hội miền núi gắn với định hướng thực hiện một số dự án lớn tại vùng Tây tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025; Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 27/4/2016 về đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Nghị quyết số 06-NQ/TU, ngày 04/11/2016 về tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016 - 20220; Nghị quyết số 16-NQ/TU, ngày 15/12/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác cán bộ người dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020 và định hướng đến năm 2025; Chỉ thị số 23-CT/TU, ngày 22/10/2012 của tỉnh ủy về tiếp tục tăng cường công tác kết nghĩa giúp đỡ các xã miền núi đặc biệt khó khăn v.v...Theo báo cáo tổng kết 05 năm thực hiện chương trinh MTQG giảm nghèo bền vững và chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016 - 2020; Tổng nguồn vốn huy động đầu tư chương trình là 23.853.265 triệu đồng; trong đó, Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới 17.021.601 triệu đồng; Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững 6.831.664 triệu đồng. Góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được chăm lo, cải thiện rõ nét. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo và chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hoá dân tộc truyền thống được bảo tồn và phát huy. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được bảo đảm; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ. Quốc phòng, an ninh, chính trị được giữ vững, ổn định. Kết cấu hạ tầng từng bước được đầu tư xây dựng và phát triển, nhất là thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.


(Ảnh minh họa)

          Tuy nhiên, công tác dân tộc còn không ít những tồn tại, hạn chế so với sự phát triển chung của toàn tỉnh và từng địa phương, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội phát triển chậm; kết cấu hạ tầng và các thiết chế văn hóa một số nơi còn bất cập; tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao; Theo kết quả điều tra hộ nghèo năm 2019, toàn tỉnh còn 25.650 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 6,06%; và 10.922 hộ cận nghèo, tỷ lệ 2,58%.Trong đó khu vực miền núi 17.449 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 20,85%; hộ nghèo dân tộc thiểu số 14.096 hộ/ 34.276 hộ, tỷ lệ 41,12%. khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng gia tăng, nhất là đối với miền núi tỷ lệ hộ nghèo còn rất cao; chất lượng giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân có mặt hạn chế chưa đáp ứng nhu cầu, nhất là ảnh hưởng của dịch Covid - 19; trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS còn thấp; hệ thống chính trị ở cơ sở có nơi còn yếu; công tác quản lý tài nguyên rừng, khoáng sản còn nhiều bất cập; tình trạng truyền đạo trái phép; tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống chưa được xóa bỏ triệt để; công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật còn đơn điệu, hiệu quả thấp; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp.

          Nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, đáp ứng yêu cầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo Kết luận số 65/KL-TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24/-NQ/TW  của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới và Nghị quyết số 12/ NQ-CP, ngày 15/02/2020 của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 88/2019/QH14, ngày 18/11/2019 của Quốc hội về phê duyệt Đề án tổng thể Phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào Dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Chỉ thị số 29- CT/TU, ngày 06/7/2018 của Tỉnh ủy Quảng Nam về tăng cường lãnh đạo công tác dân tộc trong tình hình mới; Công văn số 2736- CV/TU, ngày 09/4/2020 của Tỉnh ủy về việc triển khai thực hiện kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ chính trị. Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế, do tác động của đại dịch Covid- 19; vì vậy, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng; của hệ thống chính trị từ tỉnh đến huyện, từ huyện đến xã, từ xã đến thôn và từ thôn đến hộ; qua đó nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận đoàn thể và quần chúng nhân dân về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong tình hình mới. Xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của hệ thống chính trị nên các địa phương chủ động xây dựng chương trình kế hoạch và tổ chức thực hiện theo phân cấp quản lý, đồng thời tăng cường  trách nhiệm và nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc, theo tinh thần kết luận số 65-KL/TW của Bộ chính trị và chỉ thị số 29- CT/TU của Tỉnh ủy.

          Thứ hai, Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương; ưu tiên bố trí, sắp xếp, ổn định dân cư, phát triển sản xuất gắn với quy hoạch, xây dựng nông thôn mới; Tập trung giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt và tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; đẩy nhanh việc hoàn thành các dự án định canh, định cư mới gắn với quy hoạch sắp xếp, ổn định dân cư, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng di cư tự do; Đẩy mạnh chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hóa theo chuỗi giá trị. Có cơ chế chính sách khuyến khích các doanh nghiệp lên đầu tư tại miền núi; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước, phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hoà nhập phát triển cùng với đất nước.

           Thứ ba,  Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác tiềm năng, thế mạnh của vùng, phù hợp với văn hoá, tập quán từng dân tộc. Quy hoạch phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái, gắn với bảo vệ rừng; kết hợp du lịch với giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số. Ưu tiên nguồn lực nhà nước để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là đường giao thông, công trình thuỷ lợi, chợ, trường học, trạm y tế, nhà văn hoá phải được kiên cố hoá; bảo đảm các hộ gia đình dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia, dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông, tiếp cận công nghệ thông tin phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt. Thúc đẩy đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo bền vững;

 Thứ tư, Phát triển đồng bộ các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.Nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo; mở rộng hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú;.Đổi mới phương thức tuyển sinh theo hướng cử tuyển, chế độ dự bị đại học, đào tạo nghề cho đối tượng người dân tộc thiểu số. Có chính sách giải quyết việc làm đối với thanh niên dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và đào tạo nghề; có cơ chế chăm lo đời sống cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.Nâng cao tỉ lệ khám, chữa bệnh và chất lượng các dịch vụ y tế, nhất là khám, chữa bệnh ban đầu ở tuyến cơ sở; Tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh ở các tuyến thông qua chính sách bảo hiểm y tế. Quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế, có cơ chế đào tạo cán bộ có trình độ chuyên sâu là đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương.Nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của người dân. Đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở ở từng vùng, từng địa phương; quan tâm tu bổ, bảo tồn các công trình di tích lịch sử, văn hoá; sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số; xoá bỏ tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và thực hiện nghiêm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Phát huy vai trò tích cực của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Thứ năm,  Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chủ động nắm chắc tình hình, giải quyết những mâu thuẫn ngay từ cơ sở, kiên quyết không để xảy ra các "điểm nóng", "điểm phức tạp" về an ninh trật tự, đặc biệt ở các địa bàn chiến lược: vùng giáp ranh với tỉnh bạn, vùng biên giới với Nước cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Tăng cường quan hệ hợp tác, đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân vùng biên giới.

Thứ sáu,  Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tăng cường phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường hoạt động của các mô hình tự quản tại cộng đồng; biểu dương, tôn vinh, động viên người tiêu biểu có uy tín, doanh nhân, nhà khoa học trong cộng đồng các dân tộc thiểu số có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy manh công tác kết nghĩa theo tinh thần chỉ thị số 23-CT/TU;ngày 22/10/2012 của tỉnh ủy. Tập trung phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, theo Nghị quyết số 52/NQ-CP của Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển nguồn nhân lực các DTTS giai đoạn 2016-2020 và Nghị quyết số 16-NQ/TU, ngày 15/12/2014 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về công tác cán bộ người dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến năm 2025; Có chính sách đặc thù tuyển dụng công chức, viên chức đối với dân tộc thiểu số. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Kiện toàn tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc các cấp nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Thứ bảy, Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình chính sách dân tộc; Trước mắt là tập trung triển khai thực hiện tốt chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2021-2025 và định hướng giai đoạn 2026-2030, theo Nghị quyết số 88/2019/QH14, và Nghị quyét số 12/NQ-CP của Chính phủ. Tiếp tục tham mưu Tỉnh ủy, HĐND,UBND tỉnh rà soát điều chỉnh, bổ sung, ban hành mới các cơ chế chính sách của tỉnh, phù hợp với từng giai đoạn đặc thù của miền núi để huy động các nguồn lực, lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư cho miền núi, như: Nghị quyết số 05-NQ/TU,ngày 17/8/2016 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế - xã hội miền núi gắn với định hướng thực hiện một số dự án lớn tại vùng Tây tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025. Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức chấp hành đường lối, chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước về công tác dân tộc trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ với HĐND, UBMTTQVN các cấp, xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra, giám sát thực hiện chương trình đúng quy định. Tổ chức đánh giá sơ kết, tổng kết chương trình, gắn với công tác thi đua khen thưởng, rút ra bài học kinh nghiệm để triển khai có hiệu quả cho giai đoạn tiếp theo.

Tin liên quan